hành vi của trẻ
Siro ho do Maiden sản xuất được nói có liên quan đến cái chết của hơn 100 trẻ em ở Gambia và Indonesia - Ảnh: REUTERS. hồ sơ đến Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra ông này về hành vi nhận hối lộ.
Hành vi xâm hại trẻ em dù thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, bị bóc lột và cần được chăm sóc trong xã hội, vì vậy bất kỳ hành vi nào làm tổn hại đến trẻ em đều bị xử lý nghiêm khắc bằng việc xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
Bản chất của việc quản lý hành vi trẻ tự kỷ; 3. Cấu trúc, quy trình và khả năng dự đoán trong quản lý hành vi trẻ tự kỷ. 3.1. Xây dựng lịch trình để quản lý hành vi trẻ tự kỷ tốt hơn; 3.2. Cấu trúc không gian vật chất trong quản lý hành vi trẻ tự kỷ; 4.
4 hành vi xấu của trẻ cần phải nghiêm khắc dạy bảo CẬP NHẬT - 11 ngày trước Đối với những hành vi xấu này của con, cha mẹ đừng mềm lòng. Càng nghiêm khắc bao nhiêu, con càng ngoan ngoãn bấy nhiêu. Tin nổi bật kenh14 Nghẹn ngào tang lễ Trung úy tử nạn trong mưa lũ ở Đà Nẵng: "Nó nói đưa bà con ra khỏi vùng nguy hiểm rồi về liền"
4 Cách khen thưởng, động viên những hành vi mới của trẻ và hình thành những hành vi mong muốn cho trẻ 5 Bạn nên chọn những hình thức khen thưởng nào cho bé? 5.1 Bấm giờ đồng hồ (một cách rất tốt đối với những đứa trẻ thường làm chậm chạp)
mimpi naik mobil truk bersama teman togel. Quăng đồ chơi của mình, đánh, cắn, la hét, và những hành vi không đáng yêu khác là bình thường đối với trẻ mới biết đi. Nhưng bạn có thể ngăn cản, kiểm soát những hành vi này và dạy trẻ những hành vi tốt hơn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cung cấp những thông tin hữu ích để hiểu về những thách thức và cách cha mẹ và người chăm sóc trẻ có thể đặt giới hạn phù hợp với lứa tuổi trẻ mới biết đi. 1. Nói dối Có ba lý do chính khiến một đứa trẻ nói dối đó là nói dối để được chú ý, nói dối để tránh gặp rắc rối và nói dối để cảm thấy tốt hơn về bản thân. Phân biệt những lý do nói dối của trẻ có thể giúp cha mẹ chúng xác định hướng hành động tốt nhất. Khi bắt gặp con mình nói dối, hãy hỏi "Đó có phải là điều thực sự đã xảy ra hay chỉ là điều mà con mong muốn sẽ xảy ra?" Cho trẻ thấy được những hậu quả của việc nói dối. Nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trung thực bằng cách tạo ra một quy tắc nhỏ dành riêng cho gia đình với nội dung "Hãy nói sự thật".Cha mẹ cũng nên khen ngợi con khi chúng nói sự thật, đặc biệt là khi những sự thật đó có thể khiến chúng gặp rắc rối. Hãy nói điều gì đó như, "Mẹ rất tự hào về con vì đã thành thật về việc con đã ăn vụng chiếc bánh kem đó khi chưa được sự cho phép của mẹ. Mẹ sẽ không phạt con vì con đã dũng cảm nhận lỗi nhưng không được để chuyện này xảy ra thêm một lần nào nữa. " 2. Tỏ vẻ thách thức Liệu trẻ đã từng phớt lờ bạn khi cha mẹ bảo chúng lấy đồ chơi hay nói "Không!" khi cha mẹ yêu cầu chúng ngừng đập đồ chơi xuống sàn, chắc chắn là đã từng như vậy bởi đó chính là hành vi thách thức của trẻ. Hành vi thách thức là hành vi khó giải quyết. Tuy nhiên việc trẻ em cố tình phớt lờ hoặc không nghe lời người lớn là chuyện bình thường và chúng cũng thường xuyên xảy giải quyết vấn đề này, hãy đưa ra những mức cảnh cáo riêng cho từng hành vi mang tính thách thức. Nếu trẻ vẫn tiếp tục thể hiện sự chống đối hãy cho trẻ thấy những hình phạt mà mình đưa ra không phải chỉ để dọa chúng. 3. Dành thời gian quá nhiều trước màn hình điện thoại hay tivi Một vấn đề phổ biến khác về hành vi của trẻ là không kiểm soát được thời gian sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính hay tivi. Cho dù trẻ có la hét khi cha mẹ yêu cầu chúng tắt TV hoặc chơi trò chơi trên điện thoại của họ bất cứ khi nào cha mẹ không nhìn thì thời gian sử dụng thiết bị quá nhiều cũng không có lợi cho sức khỏe. Do đó, cha mẹ cần thiết lập các quy tắc rõ ràng về thời gian sử dụng thiết bị. Nếu trẻ quá phụ thuộc vào thiết bị điện tử để giải trí, thời gian chúng được sử dụng lại những thiết bị đó cũng sẽ cần phải được tăng lên. Không cho trẻ tiếp xúc quá sớm với các đồ điện tử cũng như chính bản thân những người lớn trong gia đình sẽ cần phải trở thành tấm gương cho trẻ. Cân nhắc thiết lập chương trình cai nghiện kỹ thuật số định kỳ cho toàn gia đình để đảm bảo rằng mọi người đều có thể hoạt động mà không quá phụ thuộc và những thiết bị điện tử của họ. Không cho trẻ tiếp xúc quá sớm với các đồ điện tử 4. Các vấn đề liên quan đến thực phẩm Nhiều bậc cha mẹ có thể đang phải đối mặt với tình trạng kén ăn của con mình. Trong khi nhiều người khác lại luôn phải đưa ra các giới hạn về lượng thực phẩm được đưa vào của trẻ. Các hành vi liên quan đến thực phẩm có thể dẫn đến tranh giành quyền lực và các vấn đề về hình ảnh cơ thể, vì vậy điều quan trọng là phải xử lý chúng cẩn thận. Tích cực làm việc để giúp trẻ phát triển một thái độ lành mạnh về thức ăn. Hãy nói rõ ràng thức ăn là để cung cấp năng lượng cho cơ thể của chúng, không phải là thứ dùng để an ủi chúng khi chúng buồn hoặc giúp chúng giải trí khi chúng thấy nhàm nói những điều đại loại như "rau có lợi cho sức khỏe." Trẻ em có xu hướng nghĩ thức ăn lành mạnh có vị không tốt. Thay vào đó, hãy nói về các loại rau ngon cũng như các loại thực phẩm bổ dưỡng khác. Thay vì cố gắng làm hài lòng tất cả mọi người trong mỗi bữa ăn, hãy phục vụ một bữa ăn cân bằng lành mạnh cho mọi người và thiết đặt những giới hạn cho đồ ăn vặt. 5. Hành vi thiếu tôn trọng Gọi thẳng tên cha mẹ, ném đồ đạc lung tung và dùng những từ ngữ không đúng mực để nói với cha mẹ chỉ là một vài trong số những vấn đề phổ biến về hành vi thể hiện sự thiếu tôn trọng của trẻ. Nếu hành vi thiếu tôn trọng không được giải quyết một cách thích hợp, nó có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Nếu mục đích của trẻ là thu hút sự chú ý của cha mẹ chúng, thì việc phớt lờ những hành vi này có thể là hành động tốt nhất. Cho trẻ thấy rằng việc thè lưỡi với cha mẹ mình sẽ không khiến cha mẹ phản ứng lại như cách mà chúng mong dụ, nếu trẻ gọi tên cha mẹ mình, hãy kiên quyết và bình tĩnh nói với chúng về việc sử dụng những từ ngữ tử tế. Hãy nói rõ ràng cha mẹ sẽ không cho phép chúng sử dụng ngôn ngữ đó ở nhà. 6. Rên rỉ Rên rỉ có thể là một thói quen xấu, đặc biệt nếu nó giúp trẻ đạt được điều chúng muốn. Điều quan trọng là phải hạn chế việc than vãn trước khi nó trở thành một vấn đề lớn hơn nữa. Một hành động đầu tiên mang lại hiệu quả là phớt lờ sự than vãn của trẻ. Cho trẻ thấy rằng than vãn sẽ không khiến cha mẹ thay đổi ý định và hãy dành sự quan tâm khi trẻ đã ngừng than vãn. Ngoài ra, hãy dạy cho trẻ những cách thích hợp hơn để đối phó với những cảm xúc không thoải mái, chẳng hạn như thất vọng. Trẻ có thể cảm thấy buồn và nói về điều đó, nhưng việc liên tục than vãn hay rên rỉ về một vấn đề là điều không được phép xảy ra. Hãy dạy trẻ cách đối phó với những cảm xúc không thoải mái Trẻ nhỏ thường có xu hướng bốc đồng, vì vậy không có gì lạ khi một đứa trẻ 4 tuổi thường xuyên bị ba mẹ bị đánh đòn. Trẻ lớn thường thể hiện hành vi bốc đồng thông qua lời nói, có nghĩa là chúng có thể thốt ra những câu nói không hay làm tổn thương tình cảm của mọi người. Có nhiều điều cha mẹ có thể làm để dạy con kỹ năng kiểm soát sự bốc đồng. Một cách đơn giản để giảm hành vi bốc đồng là khen ngợi trẻ mỗi khi chúng suy nghĩ trước khi nói hoặc hành động. Ngay lập tức động viên con trẻ khi chúng kiểm soát được lời nói hoặc những hành vi của mình. Dạy kỹ năng quản lý cơn giận và kỹ năng tự kỷ luật. Kiểm soát cảm xúc cũng sẽ giúp trẻ kiểm soát cảm xúc. 8. Các vấn đề về hành vi trước khi đi ngủ Cho dù trẻ không chịu ở trên giường hoặc chúng đòi ngủ cùng với cha mẹ, những thách thức trước khi đi ngủ là điều thường thấy. Nếu không có biện pháp can thiệp thích hợp, trẻ có thể sẽ bị mất ngủ. Thiếu ngủ có liên quan đến việc gia tăng các vấn đề về hành vi ở trẻ nhỏ. Và thiếu ngủ cũng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe thể lập các quy tắc rõ ràng về giờ đi ngủ và tạo thói quen đi ngủ lành mạnh. Sự nhất quán là chìa khóa để giúp trẻ thiết lập thói quen ngủ lành mạnh. Vì vậy, ngay cả khi cha mẹ phải đưa con về phòng cả chục lần trong một đêm, hãy tiếp tục làm điều đó. Cuối cùng, hành vi trước khi đi ngủ của bé sẽ được cải thiện. 9. Hung hăng quá mức Hành vi hung hăng của trẻ có thể biểu hiện bằng việc ném những cuốn sách đi khi chúng cảm thấy chán nản với những bài tập về nhà. Thậm chí cãi nhau hoặc đánh nhau với anh chị em hay các bạn cùng trang lứa. Một số trẻ trở nên hung dữ vì chúng không biết cách xử lý cảm xúc của mình làm sao cho phù hợp với môi trường xung bác sĩ cho biết thêm Hành vi hung hăng là bình thường đối với trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên, sự hung hăng sẽ giảm dần theo thời gian khi trẻ lớn lên và học được các kỹ năng mới, đặc biệt là kỹ năng trong việc kiểm soát cảm xúc của bản thân. Hành vi hung hăng là bình thường đối với trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo Hãy để trẻ dần nhận ra những hậu quả của hành vi hung hăng quá mức. Thậm chí có thể đưa ra những hình phạt nếu con làm tổn thương một ai đó. Nếu sự hung hăng không thuyên giảm theo thời gian, hãy tìm kiếm sự trợ giúp từ chuyên gia. 10. Những cơn giận dữ Cơn giận dữ thường gặp nhất ở những đứa trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo. Nhưng chúng có thể tiếp tục kéo dài cho đến trẻ vào lớp một hoặc cao hơn nữa nếu không được giải quyết nhanh qua có thể là một trong những cách tốt nhất để xử lý cơn giận dữ hay la hét của trẻ. Hãy để trẻ biết rằng việc dậm chân, la hét hoặc lăn đùng ra ăn vạ sẽ không giúp chúng đạt được điều chúng muốn. Điều quan trọng là chỉ cho bé những cách tốt hơn và hiệu quả hơn để thể hiện nhu cầu của trẻ và đáp ứng những nhu cầu vấn đề về hành vi của trẻ sẽ được giải quyết một cách tốt nhất thông qua các chiến lược kỷ luật nhất quán. Những giai đoạn như thế này là bình thường và có thể chỉ là một quá trình phát triển mà trẻ cần phải trải qua. Nhưng nếu các vấn đề về hành vi không đáp ứng với các chiến lược kỷ luật của cha mẹ hoặc hành vi của trẻ đã bắt đầu làm gián đoạn việc giáo dục của chúng cũng như các mối quan hệ bạn bè, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi khoa để cùng tìm ra cách giải ra, để phòng tránh các bệnh lý mà trẻ nhỏ hay mắc phải, cha mẹ nên chú ý đến chế độ dinh dưỡng nâng cao sức đề kháng cho trẻ. Đồng thời bổ sung thêm thực phẩm hỗ trợ có chứa lysine, các vi khoáng chất và vitamin thiết yếu như kẽm, crom, selen, vitamin nhóm B,... giúp hỗ trợ hệ miễn dịch, tăng cường đề kháng để trẻ ít ốm vặt và ít gặp các vấn đề tiêu mẹ có thể tìm hiểu thêmVì sao cần bổ sung Lysine cho bé?Vai trò của kẽm - Hướng dẫn bổ sung kẽm hợp lý Nguồn tham khảo XEM THÊM Tăng động giảm chú ý ADHD khác gì rối loạn thiếu tập trung ADD? Trẻ hay nói tục và thô lỗ Phải làm sao? Nguyên nhân trẻ nói dối và cách ứng phó phù hợp
8 vấn đề hành vi thường gặp ở trẻ Thông thường, trẻ làm ngược lại với những điều mà bạn quy định và cho rằng như vậy là đúng. 1. Không tôn trọng và cãi lời người lớn Một đứa bé ba tuổi cãi lời bạn có vẻ buồn cười và đáng yêu. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ 7 tuổi luôn hét lên là “không” với những điều bạn nói thì thật đáng lo ngại. Nếu bạn không xử lý đúng cách, việc cãi lời có thể dẫn đến tranh cãi giữa bố mẹ và con cái. Những cách sau đây hiệu quả để dạy dỗ bé yêu. Nếu trẻ cãi lại nhưng vẫn làm theo yêu cầu của bạn hoặc trẻ không phá hoại, lúc này, bạn có thể suy nghĩ và bỏ qua lỗi lầm cho trẻ. Nếu trẻ làm theo những điều bạn yêu cầu nhưng vẫn cãi lời, lúc này, bạn nên xem xét điều trẻ nói có đúng không hay những hành vi bé làm có gây ảnh hưởng gì không. Bên cạnh đó, bạn cũng nên giải thích rằng trẻ có thể tức giận nhưng không được nói chuyện thiếu tôn trọng với bạn. Nếu phản ứng của trẻ làm ảnh hưởng người khác hay bản thân chúng, bạn cần chú ý kỹ. Bạn không nên phản ứng dữ dội với biểu hiện bất thường của trẻ. Chờ trẻ bình tĩnh, bạn nói chuyện về hành vi của trẻ, giải thích hành động nào có thể chấp nhận, hành động nào không? Cho trẻ biết đến những hậu quả có thể xảy ra về hành vi đó. Đừng đe dọa trẻ mà hãy phạt bằng cách không được ăn kem hay xem phim. Xem lại cách cư xử của bạn và mọi người xung quanh với bé. Nếu bạn cũng thô lỗ, thiếu tôn trọng người khác, hãy thay đổi chính mình. 2. Trẻ chửi tục Trẻ em thường la hét khi chúng giận nhưng nếu trẻ chửi thề trước 10 tuổi, bạn nên quan tâm hơn về điều này. Khi trẻ chửi thề, bạn nên lưu ý những điều sau đây Không được chửi thề trước mặt trẻ. Không bỏ qua việc bé chửi thề, tìm hiểu tại sao con lại biết điều này. Giải thích cho bé biết việc chửi thề là không tốt. Nếu bạn cũng sử dụng những từ ngữ không hay này trước mặt trẻ, hãy xin lỗi trẻ vì mình đã lỡ miệng. 3. Có hành vi hung hăng và bạo lực Khi tức giận, trẻ hung hăng là bình thường. Rối loạn tâm trạng, tâm lý, hành vi, chấn thương, bốc đồng hoặc thất vọng có thể dẫn đến sự gây hấn ở trẻ. Đôi khi trẻ có thể sử dụng bạo lực để bảo vệ mình. Tuy nhiên, trẻ có thể học cách bạo lực ở trường hay ở nhà. Nếu con có những hành vi tiêu cực như đánh, cắn, đá, bạn hãy thưc hiện những điều sau đây Bạn hạ giọng và bình tĩnh nói chuyện với bé. Nói rõ với bé hành động như đánh, đá hay cắn là những hành vi không đúng, dẫn đến hậu quả gì và bé nên làm gì thay vì thể hiện sự tức giận. Ví dụ, bé nói “Con tức giận” thay vì “Con không thích nó” hay “Con cảm thấy không vui vì điều đó”. Điều quan trọng là bố mẹ phải là một tấm gương tốt cho con. Ngoài ra, bạn cũng nên khen hành vi tích cực và phê bình hành vi không tốt của con. 4. Nói dối Trẻ nhỏ hay nói dối cũng là nỗi lo của bố mẹ. Bạn có thể cảm thấy bị lừa dối và đau lòng, thậm chí là không tin bé nữa. Lúc này, điều bạn cần làm là Tìm hiểu xem tại sao trẻ nói dối. Có thể do sợ bị bố mẹ la mắng về việc gì đó nên đã nói dối để che giấu sự thật. Nếu vậy, bạn khuyến khích trẻ bày tỏ mong muốn của mình cho bố mẹ biết, thay vì nói dối để che giấu. Dạy bé thành thật và bạn hãy là tấm gương tốt cho bé. 5. Bắt nạt bạn bè Bắt nạt bạn bè là một vấn đề nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng đến tình cảm và thể chất của người khác. Trẻ thường có xu hướng bắt nạt người khác để chứng tỏ mình mạnh mẽ. Khi thấy con bắt nạt người khác, bạn hãy Dạy cho trẻ biết rằng bắt nạt người khác là không tốt. Bạn cho bé biết thế nào là bắt nạt người khác, tức là bắt người khác làm việc gì đó cho mình, dùng bạo lực lấy tài sản của người khác. Đặt ra những quy tắc trong nhà, viết những câu như “Không được bắt nạt trong nhà” hoặc “Con không được cư xử như vậy trong nhà”. Quan sát để phát hiện sớm dấu hiệu bắt nạt bạn của trẻ. Khi thấy con đang bắt nạt bạn mình, bạn hãy sửa hành vi đó ngay lúc đó. 6. Vòi vĩnh Trẻ có xu hướng bạo lực, khóc để đạt được điều mình muốn. Nếu chiều theo hành vi xấu này, bạn chỉ khiến trẻ cảm thấy điều mình làm là đúng. Ví dụ, trẻ bực tức chỉ vì bạn không mua kẹo hay đồ chơi. Khi trẻ la khóc, bạn nghĩ lại mua kẹo cho trẻ chỉ để làm hạ cơn giận, vô tình bạn đã nuông chiều trẻ không đúng cách. Tóm lại, khi bé vòi vĩnh, bạn kiên quyết không chiều theo ý bé mà giải thích cho bé rõ để không trở thành cuộc chiến. 7. Thiếu động lực, lười biếng Dù là tập thể dục ở trường, tham gia văn nghệ hay chơi đùa với bạn bè, bé đều từ chối tham gia. Để giúp con có động lực, bạn hãy Khuyến khích bé bằng cách kể chuyện lúc nhỏ của bạn để chia sẻ kinh nghiệm và truyền cảm hứng cho bé. Đừng ép buộc trẻ phải có sở thích nào mà hãy để bé tự lựa chọn. Điều này sẽ giúp trẻ hứng thú hơn với điều chúng chọn. Bạn có đang ép trẻ làm điều gì đó không? Bạn có hỏi bé thích điều gì chưa? Hãy quan sát để biết bé thích gì từ đó tạo động lực cho bé. 8. Gặp vấn đề trong cư xử ở trường Mỗi buổi sáng, trẻ đều nói “Con không muốn đi học”. Trẻ thường từ chối đi học với những lý do như bị bắt nạt, làm bài tập, không muốn xa bố mẹ, không thích tuân theo quy định của trường lớp hay lo lắng. Việc bạn cần làm là Tìm ra nguyên nhân tại sao con không thích học và làm bài tập. Sau khi biết được nguyên nhân, bạn có thể đến trường giúp con tìm cách xử lý. Ví dụ con bị bắt nạt, bạn dẫn con đến gặp người bạn hay bắt nạt để nói chuyện. Nếu tình hình không cải thiện, bạn có thể nhờ cô giáo hỗ trợ. Bạn nên khuyến khích bé học tập, dạy cho bé những bài tập khó, nhưng không nên treo thưởng để bé học. Khi tình trạng không thích đến trường của con không cải thiện, bạn có thể nhờ chuyên gia tâm lý, bác sĩ giúp. Những chứng rối loạn ở trẻ Đôi khi những hành vi bất thường của trẻ có thể là triệu chứng rối loạn hành vi. Dưới đây là một số chứng rối loạn hành vi thường gặp ở trẻ. 1. Rối loạn thách thức chống đối ODD Rối loạn thách thức chống đối là một hành vi gây hại phổ biến ảnh hưởng đến trẻ. Triệu chứng của ODD là tức giận, bùng phát những cơn thịnh nộ, thường xuyên giận dữ, chống lại quy tắc, quấy rầy người khác, đổ lỗi cho người khác về lỗi lầm của mình. 2. Rối loạn xử lý cảm giác CD Những trẻ mắc chứng rối loạn xử lý cảm giác thường có hành vi gian lận và không tuân theo quy tắc. Ở Mỹ, có khoảng 5% trẻ em dưới 10 tuổi mắc chứng rối loạn này. Những hành vi của chứng rối loạn xử lý cảm giác là không tuân theo quy tắc bố mẹ hay nhà trường đưa ra, thường xuyên trốn học, lạm dụng rượu, thuốc lá, ma túy khi còn nhỏ, hiếu chiến, đánh đập vật nuôi, sử dụng vũ khí, hay nói dối, thích làm những hành vi phạm tội như trộm cắp, đốt tài sản, đột nhập vào nhà người khác, bỏ nhà, có xu hướng tự tử rất hiếm. 3. Rối loạn tăng động giảm chú ý ADHD Chứng rối loạn tăng động giảm chú ý có liên quan đến hành vi tập trung, bốc đồng ở trẻ, biểu hiện là khó tập trung vào một vấn đề, không định hướng được khi nói chuyện với trẻ, khó nhớ kiến thức học ở trường hay lời hướng dẫn, khó tập trung vào chi tiết. 4. Rối loạn nhân cách Trẻ mắc chứng rối loạn nhân cách thường trở nên thờ ơ với vấn đề của người khác. Chứng rối loạn này thường trở nên trầm trọng hơn khi lớn tuổi, dẫn đến các hoạt động phi pháp và phi đạo đức. 5. Không phát triển kỹ năng xã hội Triệu chứng của việc không phát triển kỹ năng xã hội là trẻ rất khó khăn khi bắt chuyện cũng như tương tác với người khác. Chứng rối loạn hành vi ở trẻ biểu hiện rõ hơn khi trẻ lớn lên. Giúp trẻ năng động để cải thiện hành vi Để giải quyết hiệu quả những vấn đề hành vi ở trẻ, bạn cho trẻ tham gia các hoạt động như Tập thể dục Việc đưa trẻ ra ngoài công viên tập thể dục hoặc chơi vào mỗi buổi sáng có thể giúp bé cảm thấy thoải mái hơn. Nếu không giúp giải tỏa tâm lý đúng cách, trẻ có thể tìm cách giải tỏa như cáu giận hay phá hoại. Cho bé đọc to một quyển sách phù hợp với tuổi của bé, hay đọc những gì mà chúng viết. Kể một hoạt động thu hút trí tưởng tượng của bé. Điều này giúp bé sử dụng năng lượng hợp lý và tâm trạng bé cũng tốt hơn. Chơi các trò chơi lành mạnh hay đọc sách giáo dục về những việc làm tốt như giúp đỡ người khác, biết chia sẻ, xin lỗi khi làm việc gì không đúng hay cảm ơn khi được người khác cho đồ hay giúp đỡ.
Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Minh Sơn - Bác sĩ Tim mạch can thiệp - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang. Tự kỷ là một nhóm những rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển của bộ não. Trẻ bị tự kỷ thường lặp đi lặp lại một số động tác, thiếu thích nghi và thích thú, không biết vui đùa, cứng nhắc... Do đó, việc quan sát các hành vi của trẻ tự kỷ rất quan trọng để có biện pháp điều trị kịp thời. 1. Tự kỷ là gì? Tự kỷ hay còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ, một nhóm những rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển của bộ não. Theo nghiên cứu của viện Sức khỏe Tâm thần Mỹ, rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ em là một rối loạn tâm thần thuộc loại phát triển thần kinh biểu hiệu từ rất sớm. Đây là một tình trạng khiếm khuyết phức tạp về các khả năng phát triển của não bộ, 75% tiến triển trong ba năm đầu đời của trẻ, thường xảy ra ở bất kỳ đứa trẻ nào, không phụ thuộc vào dân tộc, xã hội hay trình độ của cha tự kỷ là những rối nhiễu đặc hiệu trong việc không thể thiết lập mối quan hệ tương tác với xã hội bên ngoài, làm cho trẻ mất khả năng giao tiếp, đặc biệt là về phương diện ngôn ngữ và có thể gây tổn thương cho chính đứa trẻ vì những hành động tự gây hại, quậy phá đó. Vì vậy, nhận biết các dấu hiệu trẻ tự kỷ rất quan trọng để hỗ trợ điều trị kịp thời. Các hành vi của trẻ tự kỷ gồm nhiều phương diện khác nhau, như ngôn ngữ, hành động, cảm xúc... Biểu hiện của trẻ tự kỷ về mặt cảm xúcNgay từ khi còn nhỏ, trẻ không giao tiếp bằng mắt với mẹ, không nhìn thẳng người đối diện hoặc nhìn như không có ai ở đó, thường lơ đễnh, không phân biệt được người quen và người lạ. Trẻ tự kỷ thường không theo mẹ, không bày tỏ yêu thương hay quyến luyến với mẹ, đặc biệt không biết vui mừng khi bố mẹ đi đâu Các hành vi của trẻ tự kỷ về mặt ngôn ngữMột trong các hành vi của trẻ tự kỷ đó là nói những âm đơn điệu, không có ngữ điệu, hay nhại lời người khác và thường nói lẩm bẩm một mình, đôi khi phát ra những âm thanh vô nghĩa lặp đi lặp lại. Trẻ không biết bắt chước người lớn để làm cũng như nói theo và khi có bất kỳ nhu cầu gì trẻ không biết diễn đạt làm cho người lớn hiểu mình cần gì, phải gợi ý hướng dẫn nhiều lần trẻ mới có thể làm theo được. Một trong các hành vi của trẻ tự kỷ đó là không biết bắt chước người lớn để làm cũng như nói theo Nhận biết dấu hiệu trẻ tự kỷ thông qua các hành viBiểu hiện của trẻ tự kỷ thường là cử động tay chân lặp lại hoặc rập khuôn, cuốn hút với các hoạt động, nghi thứcThích chơi với một tâm đến chi tiết của đồ chơi hơn là cách sử dụng đồ chơi thế hoạt động và chơi với đồ dùng trong nhà quá thích đu đưa thân mình, hoạt động chân tay quá thích đi trên đầu ngón tự kỷ rất ghét sự thay đổi và sẽ có phản ứng giận dữ hay rất hoảng sợ khi đồ đạc trong nhà thay đổi hoặc khi mẹ thay đổi kiểu tóc,...Đối với những kích thích từ môi trường bên ngoài, trẻ tự kỷ có khi đáp ứng quá mức hoặc kém đáp ứng. Trẻ có thể cảm thấy thú vị với những âm thanh nhỏ tự tạo ra như gõ vào đồ vật bên tai, gãi nhưng lại lờ đi những lời nói của cha mẹ,...Trẻ không biết sợ hãi khi gặp nguy hiểm, có thể tự gây thương tích cho mình như cào cấu, nhổ tóc, đánh vào đầu,...Trẻ có thể không ngủ vào ban đêm nhưng ban ngày vẫn tràn đầy năng có thể có những rối loạn vận động như chậm đi do giảm trương lực cơ, cử động bất thường, đập đầu, nhăn nhó mặt, xua tay,...Cho đến nay vẫn chưa có cách chữa khỏi hoàn toàn chứng phổ tự kỷ, tuy nhiên trẻ tự kỷ khi được tiếp cận sớm các phương pháp điều trị có thể giúp cải thiện và hòa nhập xã hội tốt hơn. Vì vậy, khi quan sát thấy trẻ có những biểu hiện trên, cha mẹ cần cho con đi khám càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và can thiệp phù hợp. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Bé 24 tháng tuổi không thích tiếp xúc, bám mẹ không rời khi đến chỗ đông người có phải dấu hiệu của bệnh tự kỷ không? Những dấu hiệu cảnh báo trẻ có nguy cơ tự kỷ Hướng dẫn trực quan về tự kỷ
Các hành vi tự hại ở trẻ vị thành niên đang gây ra sự chú ý và quan tâm ngày càng tăng trên toàn thế giới.. Cá nhân thường bắt đầu thực hiện hành vi tự hại vào giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, từ 12 đến 14 tuổi thường liên quan đến việc cắt hoặc khắc lên da [1]. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra hành vi tự hại cũng có thể bắt đầu khi trẻ dưới 12 tuổi hoặc trên 14 tuổi [1,2] và họ có thể duy trì hành vi tự hại cho đến tuổi trưởng thành [3].Một số nghiên cứu đã báo cáo hành vi tự hại có thể xuất hiện trong một loạt các rối loạn, chẳng hạn như rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn phân ly, rối loạn hành vi, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn bùng nổ gián đoạn, rối loạn lo âu, rối loạn khí sắc, rối loạn sử dụng chất kích thích, rối loạn ăn uống và rối loạn nhân cách ranh giới. Tuy nhiên không phải tất cả các nghiên cứu đều đưa ra bằng chứng xác nhận mối liên quan giữa hành vi tự hại và rối loạn tâm thần [1-5].1. Hành vi tự hại là gì?Hành vi tự hại non-suicidal self-injury là hiện tượng tự gây thương tích cho bản thân, ám chỉ một hành vi hủy hoại trực tiếp và có chủ ý của một cá nhân với chính bản thân mình. Tuy nhiên, hành vi này không đồng nghĩa với việc họ có ý định tự tử/ tự sát. Hành vi tự hại có thể thay đổi từ mức độ nhẹ ví dụ như tần suất thấp và tổn hại nhẹ như là trầy xước, trung bình ví dụ như tần suất thường xuyên và tổn hại hơn, có thể cần chăm sóc y tế đến nặng ví dụ như tần suất dày đặc hơn, chấn thương nặng và suy yếu [1,3,6].2. Mối liên hệ giữa hành vi tự hại và hành vi tự tử/ tự sátNghiên cứu cho thấy rằng hành vi tự hại là có thể yếu tố dự báo mạnh mẽ về những nỗ lực tự sát trong tương lai của một cá nhân [7,8]. Tuy những người cố gắng thực hiện hành vi tự sát có điểm số cao hơn trong các thang đo về lo âu, trầm cảm và các ý tưởng tự tử so với những người thực hiện những hành vi tự hại [6,7]. Nghiên cứu nhận thấy nếu hành vi tự hại được thực hiện một cách thường xuyên và lâu dài, có thể dẫn tới nỗ lực tự sát ở cá nhân [9]. Điều này cho thấy, mặc dù hành vi tự hại có thể không trực tiếp dẫn đến nỗ lực tự sát, nhưng cũng không loại trừ khả năng hành vi tự hại có thể trở thành nguy cơ cho hành vi tự tử trong tương lai [7-9].Sự khác biệt rõ ràng giữa hành vi tự hại và hành vi tự sát là trong khi hành vi tự hại có thể được sử dụng như một cách thức không phù hợp để họ đối phó với vấn đề gặp phải như căng thẳng tâm lý, nhằm điều chỉnh cảm xúc. Hành vi tự sát thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống của một người [5],[10].3. Tiêu chí chẩn đoán theo DSM-5Theo Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ [11], liệt kê hành vi tự hại là một chẩn đoán riêng biệt, trong khi các phiên bản trước của Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ - viết tắt là DSM chỉ bao gồm hành vi tự hại như một triệu chứng của rối loạn nhân cách ranh giới chứ không phải là một chẩn đoán riêng biệt [12]. Quy định giữa các tiêu chí về hành vi tự tử và hành vi tự hại là rất quan trọng trong việc chẩn đoán phân loại rối loạn để có liệu trình can thiệp phù DSM-V, để đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán hành vi tự hại, một người phải cố ý tự gây thương tích cho bề mặt cơ thể từ 5 ngày trở lên mà không có ý định tự tử/ tự sát trong năm qua [3,11]. Hành vi tự hại phải gắn liền với một trong các tiêu chí sau [3,11]Cá nhân có hành vi tự hại kỳ vọng được giải thoát khỏi cảm xúc tiêu cực, giải quyết vấn đề cá nhân, tạo ra các cảm xúc tích vi tự làm tổn thương gắn với một trong các tình huốngcá nhân trải qua các cảm xúc tiêu cực trước khi có hành vi;cá nhân chuẩn bị cho hành vi cẩn thận trước khi hành vi diễn ra;cá nhân nghĩ nhiều tới hành vi này ngay cả khi nó không diễn quan trọng đối với hành vi đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán của hành vi tự hại là hành vi không được xã hội chấp vi tự hại thường dẫn đến đau khổ đáng kể cho cuộc sống của cá nhân đó. Hành vi hoặc hậu quả của nó có thể gây căng thẳng đáng kể với cuộc sống thường nhật của cá ra, hành vi tự hại không diễn ra trong giai đoạn loạn thần, mê sảng, say chất, hoặc cai nghiện chất, hành vi không thể được giải thích bởi các tình trạng bệnh lý Phân loại các biểu hiện hành vi tự hạiCác hành vi gián tiếp Việc uống nhiều rượu, ăn thức ăn nhiều chất béo, hút thuốc lá,..những hành vi này thường không được thực hiện với mục đích gây tổn hại cho bản thân, mà thay vào đó được thực hiện vì chúng mang lại niềm vui, sự thích thú tạm thời và hậu quả gây ra là tác dụng phụ gián tiếp và ngoài ý muốn. Những hành vi như vậy thường không được gọi là tự gây thương tích hoặc tự làm hại bản thân, mà là hành vi gián tiếp tự gây tổn hại cho bản thân, tự đánh bại bản thân hoặc hành vi không lành mạnh [6]. Ngoài ra, văn hóa, dân tộc, bối cảnh sinh sống có thể tác động đến việc lựa chọn hình thức thực hiện này, chẳng hạn như hành vi tự gây thương tích có chủ ý sẽ được che giấu bằng cách thực hiện các hình thức được văn hóa họ sống chấp nhận ví dụ xăm hình, đeo khuyên.. [1,2].Các hành vi trực tiếp Cắt da/ rạch tay là loại phổ biến nhất trong các hành vi tự hại. Ngoài ra, các hình thức khác bao gồm chà xát, cắn, đốt, cào, đập hoặc đánh vào các bộ phận cơ thể và ngăn chặn việc chữa lành vết thương [4].5. Tại sao cá nhân lại thực hiện hành vi tự hại?Các yếu tố giải thích cho sự hình thành của các hành vi tự hại có thể được chia thành hai loại chính cá nhân và môi trường [1,6]. Một vài yếu tố cụ thể sẽ được nói đến dưới đâya Các yếu tố cá nhânGiải tỏa căng thẳng/ cảm xúc tiêu cực/ sự khó chịu Tuổi thành niên là một giai đoạn phát triển dễ bị tổn thương khi cá nhân đối mặt với nhiều thay đổi lớn trong cuộc sống ví dụ họ phải tập quen với cách sống tự lập, tự chủ, tự quyết định những sự việc liên quan đến mình, những thách thức trong quá trình học tập, căng thẳng điểm số hay những tình huống bất ngờ đòi hỏi họ phải có kỹ năng giải quyết vấn đề khi họ chưa đủ năng lực cũng như kinh nghiệm để xoay sở....Vì vậy, trải qua những thay đổi xảy ra có thể dẫn đến nhiều căng thẳng cho cá nhân, ví dụ họ đang dần chuyển từ sự phụ thuộc vào cha mẹ sang sự độc lập tương đối, điều này đòi hỏi nhiều khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống. Thời điểm chuyển đổi này được đánh dấu bằng sự thay đổi đáng kể trong việc tự đảm đương trách nhiệm cao và quyết định tự lựa chọn có thể dẫn đến cả sự thỏa mãn cũng như căng thẳng. Vì thế, căng thẳng có thể sẽ xảy ra khi các nhu cầu về tinh thần, cảm xúc và / hoặc thể chất vượt quá khả năng điều tiết của cơ thể [3].Trước khi thực hiện hành vi tự hại là một loạt sự gia tăng cảm giác như tức giận, căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, phiền muộn và cảm giác “đau khổ” nói chung hoặc cảm giác đau đớn, ràng buộc mà người đó cảm thấy họ không thể thoát khỏi hoặc kiểm soát được [11]. Thực hiện hành vi hại có thể được sử dụng như một cách để giải phóng tạm thời những cảm xúc đau buồn này. Tuy nhiên, bất chấp cảm giác giải tỏa ngắn hạn này, hành vi này sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực lâu dài hơn [6, 11,12].Khả năng kiểm soát Một số nghiên cứu mô tả cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cơ chế đối phó có thể gọi là phương tiện để họ kiểm soát vấn đề, giúp họ giải quyết vấn đề giữa các cá nhân hay để giảm bớt những khó khăn trong nội tâm; vết thương làm mất tập trung khỏi các tình huống thực tế đang đau đớn về cảm xúc, nỗi đau thể chất sẽ tạm thời thay thế cho nỗi đau tinh thần tại thời điểm đó của họ [1]. Ngoài ra, thói quen và sự lặp lại hành vi tự hại này có thể được coi là rối loạn kiểm soát xung động Impulse Control Disorders hội chứng tự cắt xén lặp đi lặp lại [1].Tự trừng phạt bản thân Cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cách để tự trừng phạt bản thân có thể làm thu hút sự chú ý và khiến người khác cảm thấy tội lỗi. Ngoài ra, người sử dụng hành vi tự hại của mình theo động lực này có thể nhằm mục đích ràng buộc mối quan hệ gắn bó với một cá nhân nào đó [11].Để “cảm nhận” điều gì đó Một yếu tố khác có thể đóng góp vào hành vi tự hại đó là để khơi gợi cảm xúc ''để cảm nhận điều gì đó bởi vì thanh thiếu niên đang cảm thấy tê liệt hoặc trống rỗng''. Những cá nhân này muốn cảm thấy điều gì đó, ngay cả khi cảm giác đó là đau đớn. Việc thực hiện hành vi tự hại để cảm nhận những cảm giác tích cực chẳng hạn như sự hài lòng, niềm vui hay sự phấn khích. Nghiên cứu giả thuyết rằng thực hiện hành vi tự hại sẽ dẫn đến giải phóng opiate nội sinh tham gia vào các cơ chế giảm đau để phản ứng với tổn thương mô, tạo ra cảm giác hưng phấn [4].Khả năng khơi gợi những cảm giác này có xu hướng củng cố hoặc thúc đẩy hành vi tự hại. Nhìn thấy máu trong khi thực hiện hành vi tự hại có thể là một khía cạnh củng cố của hành vi này vì người ta báo cáo rằng nhìn thấy máu giúp thanh thiếu niên cảm thấy chân thực và tập trung vào vết thương thể chất hơn là vết thương tinh thần [3].Tìm kiếm sự giúp đỡ Theo thông tin đã được cập nhật từ các nghiên cứu, hành vi tự hại đề cập đến hành vi trong đó các cá nhân khiến người khác tin rằng họ có ý định chết vì hành vi của mình khi họ thực sự không có ý định làm như vậy. Mục đích của hành vi này có thể là để giải tỏa với sự căng thẳng và / hoặc để tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác [6].b Các yếu tố môi trườngNgược đãi/ lạm dụng thời thơ ấu Hầu hết thanh thiếu niên sẽ có đầy đủ cơ chế đối phó để xử lý các thay đổi trong cuộc sống thay đổi của họ và có thể chuyển tiếp qua giai đoạn phát triển này một cách lành mạnh và tích cực. Tuy nhiên, nhiều yếu tố bên ngoài ví dụ trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi, cách thực hành nuôi dạy con kém của người chăm sóc và ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè,... và các yếu tố bên trong ví dụ rối loạn điều hòa cảm xúc và tâm lý căng thẳng có thể khiến thanh thiếu niên có nguy cơ thực hiện hành vi tự hại. Ví dụ thanh thiếu niên trải qua những trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi có nhiều nguy cơ phát triển biến dạng nhận thức có thể dẫn đến việc thực hiện các hành vi tự hại [2],[3]. Nghịch cảnh thơ ấu nghiêm trọng có liên quan đến rối loạn tâm thần, dẫn đến các hành vi tự hại nghiêm trọng hoặc thường xuyên hơn [3].Nhiều nghiên cứu tập trung vào trải nghiệm sang chấn thời thơ ấu cho thấy rằng các hành vi ngược đãi thời thơ ấu là một yếu tố rủi ro của hành vi tự hại ở thanh thiếu niên và sinh viên đại học [3,5]. Đặc biệt, trong số đó, việc bị lạm dụng cho thấy một mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của hành vi tự hại . Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò của mối quan hệ với cha mẹ và người chăm sóc trong nguyên nhân và sự phát triển của các hành vi tự hại. Ví dụ nghiên cứu cho thấy sự gắn bó không an toàn với cha mẹ là những yếu tố rủi ro về thực hiện hành vi tự hại ở cả phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, hành vi tự hại ở nam giới được dự đoán chính xác hơn bởi sự xa cách thời thơ ấu với cha [1].Trốn thoát khỏi các ký ức gây sang chấn Tiền sử bị lạm dụng/ ngược đãi thời thơ ấu và trải nghiệm cuộc sống căng thẳng có thể là những yếu tố rủi ro của tình trạng dễ bị tổn thương ở một cá nhân. Do đó, việc tránh né, muốn xóa bỏ các ký ức được khơi dậy có thể là mục tiêu khiến họ thực hiện hành vi tự hại [1]. Ngoài ra, cha mẹ có bệnh tâm thần và các rối loạn tâm lý, tiền sử gia đình có người thực hiện hành vi tự tử, gia đình tan vỡ, trải nghiệm mất mát, bất hòa trong gia đình… cũng có thể là các yếu tố rủi ro khiến họ thực hiện hành vi tự hại [2].Môi trường giáo dục không lành mạnh/ không thuận lợi cho sự phát triển cá nhân Không được đi học, không hài lòng với việc học hoặc gặp khó khăn trong học tập, bị bạn bè cô lập, bắt nạt,…có thể dẫn đến việc thanh thiếu niên không có nhiều cơ hội hòa nhập với mọi người xung quanh [2]. Người thực hiện hành vi tự hại có thể sử dụng hành vi này như một cách thức để bạn bè đồng trang lứa cảm thấy tội lỗi khi bắt nạt và bạo lực với họ ví dụ như bạo lực học đường hoặc các nhiệm vụ mà họ bắt cá nhân này tuân theo… [5].Thanh thiếu niên thực hiện hành vi tự hại có nhiều khả năng thực hiện những hành vi rủi ro khác như lạm dụng chất kích thích, hành vi tình dục nguy cơ và thói quen ăn uống không hợp lý [1]. Những người trưởng thành có tiền sử thực hiện hành vi tự hại đã bày tỏ thái độ tiêu cực đối với cơ thể và mức độ chăm sóc cơ thể thấp hơn [1]. Cá nhân thực hiện hành vi tự hại có thể bị tổn thương thể chất lâu dài và có nguy cơ tử vong cao hơn do tự tử/ tự sát [11-13]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu lớn cũng chỉ ra rằng nam giới và phụ nữ điều chỉnh cảm xúc của họ theo những cách khác nhau [12]. Bên cạnh việc nữ giới cũng thường có xu hướng thực hiện hành vi tự hại hơn nam giới, sự khác biệt giới còn được nhìn thấy trong các phương pháp được cá nhân sử dụng. Trong đó, phương thức tự cắt phổ biến ở nữ giới [2] và các phương thức tự đánh đập và tự làm bỏng là phổ biến nhất ở nam giới [2,12]. Ngoài ra, nam giới có nhiều khả năng thực hiện hành vi tự hại vì lý do xã hội và nữ giới thực hiện hành vi này phần lớn để giảm bớt trạng thái cảm xúc tiêu cực và tự trừng phạt bản thân [1]. Hơn nữa, có ý kiến cho rằng sự khác biệt giới sẽ tồn tại hoặc thể hiện rõ rệt hơn ở trẻ nhỏ hơn [12-14]. Vì vậy, sự khác biệt giới cũng có thể tác động đến phương thức cá nhân sử dụng cũng như các động lực hình thành hành vi tự hại ở mỗi cá nhân sẽ dẫn đến nguy cơ tự tử về sau cao hơn hay thấp hơn [5,11]. Nguy cơ tự tử gia tăng này bắt nguồn từ thói quen cảm nhận cảm giác đau đớn theo thời gian, giảm cảm nhận đau đớn và giảm sợ hãi đối với các rào cản tự tử vì sợ đau [3,5]. Dấu hiệu nhận biết hành vi tự hạiNhững hành vi tự hại nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời có thể để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, thậm chí là tính mạng của cá nhân người thực hiện hành vi tự hại. Việc xác định các dấu hiệu là điều cần thiết để cá nhân có thể nhận được những sự giúp đỡ phù hợp và kịp thời. Sau đây là một số dấu hiệu tham khảo [2,5,10]Xuất hiện nhiều dấu hiệu tự hại trên cơ thể thường xuyên có vết cắt, vết bỏng, vết bầm tím hoặc sẹo ở cánh tay, đùi trong......Che giấu các vật dụng tiềm ẩn gây nguy hiểm trữ các vật sắc nhọn hoặc dụng cụ cắt trong người mà không có lý do rõ ràng như lưỡi dao lam, kim tiêm, mảnh thủy tinh, hộp quẹt,...Thường mặc các trang phục kín đáo với mục đích che kín cơ thể ví dụ hay ăn mặc không phù hợp với thời tiết tức là hay mặc áo tay dài, quần dài, cổ áo cao,…ngay cả trong thời tiết nóng bức. Ngoài ra, trên quần áo họ mặc thường thấm các vết hay cản trở việc tự chữa lành của vết nghĩ/ cảm xúc tiêu cực xuất hiện nhiều chẳng hạn như khí sắc trầm hoặc hay lo âu và suy ngẫm lặp đi lặp lại về hành vi tự hại….Tránh né hoặc miễn cưỡng tham gia các hoạt động có thể làm lộ vết thương cơ chữa về chấn thương của mình khi vô tình để lộ và người khác hỏi về nguyên nhân của vết đổi cân nặng cơ thể nhanh chóng tăng cân/ sụt cân nghiêm trọng.Thường xuyên lạm dụng rượu, thuốc và chất kích thể có thái độ cáu gắt, khó chịu khi bị đụng chạm vào cơ chế hoặc gặp khó khăn trong các kỹ năng xã hội và tạo mối quan hệ với mọi được ở một mình hoặc tự cô lập bản thân…Lời KếtHãy nhớ rằng, không phải lúc nào tất cả những hành vi hay các yếu tố rủi ro kể trên đều có thể dẫn đến việc cá nhân thực hiện hành vi tự hại. Bản chất, dấu hiệu, và ý nghĩa của việc tự hại có thể khác nhau rất nhiều ở mỗi người. Vì vậy, việc tìm hiểu về “tự hại” giúp chúng ta có góc nhìn khách quan hơn để cảm thông và hỗ trợ vấn đề kịp thời. Biên tập Hương Lê Thiết kế El EiNguồn tham khảo[1] Cipriano A, Cella S, Cotrufo P. Nonsuicidal self-injury A systematic review. Frontiers in psychology. 2017 Nov 8;81946.[2] Alison Wood. Self-harm in adolescents. Advances in psychiatric treatment 2009, vol. 15, 434–441. [3] Gail Hornor, RNC, DNP, CPNP. Nonsuicidal Self-Injury. Journal of Pediatric Health Care. 2016. Volume 30. Number 3. [4] Klonsky ED The functions of deliberate self-injury A review of the evidence. Clin Psychol Rev 2007, 27226-239.[5] John Peterson, MD, Stacey Freedenthal, PhD, Christopher Sheldon, PhD, and Randy Andersen, LCSW. Nonsuicidal Self injury in Adolescents. Psychiatry Edgmont. 2008 Nov; 511 20–26. [6] Nock MK Self-injury. Ann Rev Clin Psychol 2010, 6 Andover MS, Gibb BE Non-suicidal self-injury, attempted suicide, and suicidal intent among psychiatric inpatients. Psychiatry Res 2010, 178101-105.[8] Muehlenkamp JJ, Kerr PK Untangling the self-harm web How nonsuicidal self-injury and suicide attempts differ. Prev Res 2010, 178-10.[9] Whitlock J, Muehlenkamp JJ, Purington A, Eckenrode J, et al Non-suicidal self-injury as a gateway to suicide in young adults., Manuscript under review.[10] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan.[11] American Psychiatric Association. 2013. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 5th ed.. Psychiatric Association APA 1994. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 4th ed. DSM-IV, Washington DC American Psychiatric Association.[13]Aine M. Butler and Kevin Malone. Attempted suicide v. non-suicidal self-injury behaviour, syndrome or diagnosis?. The British Journal of Psychiatry 2013. 202, 324– Konrad Bresin. Gender differences in the prevalence of nonsuicidal self-injury A meta-analysis. 2010.[15] Klonsky, E. D., & Lewis, S. P. 2014. Assessment of nonsuicidal self-injury. In M. K. Nock Ed., The Oxford handbook of suicide and self-injury pp. 337–351. Oxford University Press. [16] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan.
Nguồn chủ đề Chẩn đoán các vấn đề hành vi ở trẻ em bao gồm đánh giá hành vi nhiều bước. Mối quan tâm với trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ thường liên quan đến các chức năng của cơ thể ví dụ như ăn uống, vệ sinh, ngủ, trong khi trẻ lớn và trẻ vị thành niên có quan ngại về hành vi cá nhân ví dụ mức độ hoạt động, mất phương hướng, hung hăng chiếm ưu thế. Một vấn đề hành vi có thể biểu hiện một cách đáng báo động và đột ngột như một sự việc đơn lẻ ví dụ xung đột, bạo lực ở học đường. Thường xuyên hơn, các vấn đề biểu hiện dần dần, và nhận định liên quan đến việc thu thập thông tin theo thời gian. Hành vi được đánh giá tốt nhất trong ngữ cảnh của trẻ Phát triển thể chất và tinh thầnSức khoẻ tổng quátTính cách ví dụ, khó tính, dễ gầnMối quan hệ với cha mẹ và người chăm sócQuan sát trực tiếp sự tương tác của cha mẹ và trẻ trong lần đếnthăm khám cung cấp những đầu mối có giá trị, bao gồm phản ứng của cha mẹ đối với các hành vi. Những quan sát này được bổ sung, bất cứ khi nào có thể, thông tin từ người khác, bao gồm người thân, giáo viên và y tá trường vấn cha mẹ hoặc người chăm sóc cung cấp thứ tự các hoạt động của đứa trẻ trong một ngày bình thường. Cha mẹ được yêu cầu cung cấp các ví dụ về những sự kiện xảy ra trước và tiếp theo hành vi cụ thể. Cha mẹ cũng được hỏi vê cách diễn giải Các hành vi điển hình theo lứa tuổiKỳ vọng đối với trẻTính cách của cha mẹHỗ trợ ví dụ, xã hội, tình cảm, tài chính để hoàn thành vai trò làm cha mẹMối quan hệ của đứa trẻ với các thành viên khác trong gia đình Quá khứ của đứa trẻ có thể bao gồm các yếu tố làm tăng khả năng gia tăng các vấn đề hành vi, như tiếp xúc với chất độc, biến cố trong thời kỳ mang thai, hoặc mắc một căn bệnh nghiêm trọng hoặc tử vong trong gia số vấn đề có thể liên quan đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái và có thể được hiểu theo nhiều cách Kỳ vọng của cha mẹ không thực tế Ví dụ, một số cha mẹ kỳ vọng rằng đứa trẻ 2 tuổi của họ sẽ nhặt đồ chơi mà không cần đến sự trợ giúp. Các bậc cha mẹ có thể hiểu sai các hành vi bình thường, hành vi theo lứa tuổi, như hành vi chống đối ví dụ như trẻ 2 tuổi từ chối làm theo yêu cầu của một người lớn hoặc tuân thủ qui tắc là có vấn tác không tốt giữa cha mẹ và con Ví dụ, đứa trẻ ít được cha mẹ quan tâm có thể có vấn đề về hành tâm con quá mức Những phản ứng có ý nghĩa tốt của cha mẹ đối với một vấn đề có thể làm cho vấn đề đó trở nên tồi tệ hơn ví dụ bảo vệ quá mức một đứa trẻ sợ hãi, đeo bám; nhượng bộ một đứa trẻ gạt gẫm bằng nhiều mánh khóe.Dạng mặc định lặp đi lặp lại Ở trẻ nhỏ, một số vấn đề thể hiện kiểu hành vi có tính chất mặc định nhưng những hành vi đó gây ra các phản ứng không tích cực từ cha mẹ và dẫn đến các phản ứng không tốt trở lại của đứa trẻ, rồi lại gây ra các phản ứng bất lợi từ cha mẹ lặp đi lặp lại. Trong khuôn mẫu này, trẻ em thường phản ứng lại với những căng thẳng và khó chịu về cảm xúc thể hiện sự bướng bỉnh, nói hỗn láo, hung hăng, và bùng nổ hơn là khóc. Thông thường, cha mẹ phản ứng với một đứa trẻ hung hăng và chống lại bằng cách mắng, la hét và đánh; đứa trẻ sau đó leo thang các hành vi dẫn đến phản ứng ban đầu của cha mẹ, và phụ huynh phản ứng mạnh mẽ hơn. Sự chú ý mà trẻ nhận được từ cha mẹ đối với hành vi không phù hợp của trẻ thường củng cố điều đó. Can thiệp sớmGiáo dục và chiến lược cho cha mẹMột khi vấn đề hành vi đã được xác định và nguyên nhân của nó đã được đánh giá, can thiệp sớm là mong muốn bởi vì các hành vi sẽ khó thay đổi chúng tồn tại lâu sĩ lâm sàng trấn an cha mẹ rằng đứa trẻ đó khoẻ mạnh nghĩa là hành vi bất thường của đứa trẻ không phải là biểu hiện của bệnh tật. Bằng cách xác định về sự thất vọng của cha mẹ và chỉ ra tuần suất của các vấn đề hành vi, bác sĩ lâm sàng thường có thể làm dịu các cảm giác có lỗi của cha mẹ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm ra các biện pháp có thể và điều trị các vấn đề. Đối với những vấn đề đơn giản, giáo dục của phụ huynh, sự đảm bảo và một số gợi ý cụ thể thường là đủ. Phụ huynh nên được nhắc nhở về tầm quan trọng của việc dành ít nhất 15 đến 20 phút mỗi ngày để có một hoạt động thú vị với đứa trẻ và kêu gọi sự chú ý đối với các hành vi mong muốn khi đứa trẻ biểu hiện chúng "nắm bắt hành vi tốt". Cha mẹ cũng có thể được khuyến khích để thường xuyên dành thời gian cho nhiên, đối với một số vấn đề, cha mẹ được lợi từ các chiến lược bổ sung cho sự kỷ luật và sửa đổi hành vi. Cha mẹ nên xác định các yếu tố gây nên hành vi và các nhân tố ví dụ như chú ý thêm có thể vô tình củng cố vi mong muốn và không mong muốn cần được xác định rõ quy tắc và giới hạn phù hợp phải được thiết mẹ cần phải theo dõi sự tuân thủ trên cơ sở liên tục và đưa ra các phần thưởng thích hợp cho thành công và nhận xét đối với hành vi không thích mẹ nên cố gắng giảm bớt sự tức giận khi thực hiện các quy tắc và tăng sự giao tiếp tích cực với đứa trẻ. Giúp cha mẹ hiểu rằng "kỷ luật" hàm ý phương pháp và không chỉ là hình phạt cho phép họ tạo ra phương thức và kỳ vọng rõ ràng rằng mà trẻ em cần. Kỷ luật không hiệu quả có thể dẫn đến hành vi không thích hợp. Việc lăng mạ hoặc hình phạt thể xác có thể nhanh chóng kiểm soát hành vi của một đứa trẻ nhưng cuối cùng có thể làm giảm ý thức về bảo vệ và lòng tự trọng của đứa trẻ. Đe dọa bỏ mặc hoặc dẫn đến hư hỏng. Việc mắng mỏ, đe dọa và trừng phạt thể xác cũng dạy trẻ rằng những lời khiển trách này là phản ứng thích hợp đối với các tình huống mà đứa trẻ không pháp thời gian nghỉ time-out Phương pháp Time-Out , trong đó đứa trẻ phải ngồi một mình ở một nơi đứa trẻ không thích một góc hoặc phòng [ngoài phòng ngủ của đứa trẻ] không tối hoặc đáng sợ và không có tivi hoặc đồ chơi trong một khoảng thời gian ngắn, là cách tiếp cận tốt để thay đổi hành vi không thể chấp nhận. Thời gian nghỉ là quá trình học tập cho trẻ và được sử dụng tốt nhất cho một hành vi không thích hợp hoặc một vài lần cùng một lúc. Nên tránh giam cầm đứa trẻ. Đối với những đứa trẻ tăng mức độ phản ứng khi được đưa vào time-out, phụ huynh có thể lựa chọn di chuyển nhanh hơn để chuyển hướng khi họ nhận thấy rằng trẻ thừa nhận trẻ sự khiển trách đối với hành vi không thích hợp. Kiểu hành vi mặc định lặp đi lặp lại có thể bị gián đoạn nếu cha mẹ bỏ qua hành vi khi nó không làm phiền người khác ví dụ như từ chối ăn và sử dụng phân tâm hoặc cách ly tạm thời để hạn chế hành vi mà không thể bỏ qua cơn cáu giận công khai.Một vấn đề về hành vi không thay đổi trong 3 đến 4 tháng nên được đánh giá lại; Có thể chỉ định huấn luyện quản lý hành vi chuyên sâu hơn hoặc tư vấn sức khỏe tâm thần. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
hành vi của trẻ